Cách Chợ Mới, khóm Vĩnh Điềm, phường Ngọc Hiệp, TP. Nha Trang khoảng
100m về phía đông hiện nay vẫn còn một ngôi miếu cổ thờ Bà Thiên Hậu do
Hoa kiều thuộc bang Phước Triều lập nên cách đây hơn cả thế kỷ, gọi là
Thiên Hậu Thánh Miếu, dân gian quen gọi là Chùa Bà Thiên Hậu Phước
Triều.
Ngược dòng thời gian tìm hiểu lai lịch ngôi chùa này, ta biết rằng cộng
đồng di dân người Hoa định cư ở Vĩnh Điềm có gốc gác từ một số địa
phương bên Trung Quốc là Hải Nam, Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu và
một ít người Hẹ. Sau khi nhà Minh sụp đổ vào giữa thế kỷ XVII, nhà Thanh
cai trị Trung Quốc, nhiều người Trung Hoa không chịu nổi chính sách cai
trị khắc nghiệt của nhà Thanh đành phải rời bỏ quê hương đi tìm một
vùng đất mới để kiếm kế sinh nhai. Khi đến Việt Nam, những người này
quây quần đoàn tụ lập thành “bang”, “hội” nhằm giúp đỡ nhau làm ăn sinh
sống. Nhóm người thuộc “Ngũ bang” nói trên đã dùng thuyền vượt biển về
phía nam đến cửa Nha Trang. Tại đây, một số di dân đã theo dòng sông Cái
lên định cư ở huyện Phước Điền, phủ Diên Khánh. Thời ấy vùng Phước Điền
là nơi đất đai màu mỡ, dễ làm ăn, còn sông Cái là con đường giao thông
thuận lợi nhất cho việc đi lại giữa Nha Trang - Diên Khánh. Tại đây họ
đã lập nhà từ đường, lập chùa Ông thờ Quan Thánh Đế Quân, lập chợ Thanh
Minh (cách Thành Diên Khánh khoảng 3 km về phía tây). Người Việt gọi họ
là “Minh Hương” (làng của những người trung thành với nhà Minh). Một số
khác thuộc 2 bang Hải Nam và Phước Triều (gồm Phước Kiến và Triều Châu)
chọn Vĩnh Điềm thuộc huyện Vĩnh Xương làm nơi sinh sống, buôn bán, xây
dựng nên khu Chợ Mới ở Vĩnh Điềm Hạ và lập Hội quán, đền miếu. Đến thế
kỷ XVIII, Vĩnh Điềm Hạ đã trở thành một thị tứ mà trung tâm là khu Chợ
Mới với dân cư đông đúc, buôn bán sầm uất, dọc theo hai bên đường đi qua
chợ đa số là nhà cửa, hiệu buôn của người Hoa. Nhiều thế hệ người Minh
Hương là cư dân của Vĩnh Điềm đã đóng góp tài lực để tu sửa các Hội quán
của bang mình thành miếu thờ Bà Thiên Hậu, xây dựng thêm nhà từ đường
thờ linh vị tổ tiên, từ đó người địa phương quen gọi các ngôi miếu này
là Chùa Bà Thiên Hậu Hải Nam và Chùa Bà Thiên Hậu Phước Triều.
Về lai lịch Bà Thiên Hậu, theo tài liệu “Truyện Thánh mẫu trên trời
giáng bút” do ông Vương Vĩnh Liên, Trưởng ban Trị sự chùa Phước Triều
cung cấp, kể lại như sau: Dưới triều vua Tống Thái Tổ ở Trung Quốc có
gia đình họ Lâm ở làng Mi Châu, huyện Bồ Điền, phủ Hưng Hóa, tỉnh Phúc
Kiến sinh được 1 trai và 6 cô con gái. Người con gái út có tên là Lâm
Măc Nương sinh vào giờ ngọ ngày 23 tháng 3 năm Canh Thân niên hiệu Kiến
Long nguyên niên (960). Từ nhỏ nàng đã tỏ ra thông minh lanh lẹ, 7 tuổi
đã đọc xong Tứ thư, Tả truyện, 12 tuổi đã biết ngâm thơ đối đáp, đặt bút
thành văn. Năm 13 tuổi Mặc Nương được một vị đạo trưởng xưng là Huyền
Thông truyền thụ bí quyết ngũ hành dị thuật, linh thông biến hóa. Vào
mùa thu năm đó cha và anh cả ra biển gặp sóng to gió lớn bị lật thuyền.
Lúc ấy nàng đang ngồi dệt vải cạnh mẹ đột nhiên động lòng cảm ứng, xuất
thần đi cứu cha và anh. Khi tỉnh dậy, nàng khóc nói với mẹ rằng, cha tuy
được cứu nhưng còn anh cả không cứu được, từ đó siêng tu đạo pháp,
quyết tâm cứu người gặp nạn trên biển. Năm Lâm Mặc Nương 29 tuổi, vào
ngày mùng 9 tháng 9 niên hiệu Thái Tôn Hưng Quốc thứ 13, nàng lên núi Mi
Phong tọa hóa thăng thiên, đắc đạo chứng quả. Từ đó về sau Bà thường
giáng trần hiển linh độ phước, tế thế cứu dân. Mỗi khi thuyền bè ngoài
khơi bị nạn, người dân đều gọi vái đến Bà. Đến đời vua Càn Long nhà
Thanh, Bà được triều đình sắc phong là Thiên Thượng Thánh Mẫu. Để ghi
nhớ công ơn của Bà, nhân dân Trung Quốc đã lập nhiều đền miễu để thờ Bà,
mỗi năm xuân thu nhị tế: ngày 23 tháng 3 là ngày vía bửu đản, ngày 23
tháng 9 là ngày vía thăng thiên.
Chùa Thiên Hậu Thánh Mẫu Phước Triều ở Chợ Mới - Vĩnh Điềm nguyên thủy
là Thiên Hậu Hội Quán do các thương nhân Hoa kiều thuộc bang Phước Triều
(Phước Kiến và Triều Châu) lập nên vào năm 1875 dưới triều vua Tự Đức,
mục đích ban đầu làm nơi gặp gỡ, trao đổi để những người đến trước giúp
đỡ những người đến sau bớt phần khó khăn trong công việc làm ăn. Đồng
thời nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của những người Hoa xa xứ, trong Hội
Quán cũng lập điện thờ Bà Thiên Hậu, vì thế cũng gọi là Thiên Hậu Thánh
Miếu hoặc Chùa Thiên Hậu Thánh Mẫu Phước Triều, còn dân gian quen gọi là
Chùa Bà Thiên Hậu Phước Triều.
Gọi là “Chùa” nhưng đúng hơn đây là một “Hội Quán” kết hợp với “Miếu” vì
không thờ Phật. Trong chùa không có sư sãi, chỉ có một ông từ coi chùa
và một Ban trị sự gồm Trưởng ban, phó ban và các ủy viên được người
trong Bang bầu ra để quản lý việc chùa, mỗi nhiệm kỳ là 3 năm. Tất cả
mọi thành viên đều mặc thường phục, kể cả ngày lễ. Chỉ có người rước lễ
mới mặc sắc phục màu xanh da trời vào ngày “vía Bà”. Trước đây, chỉ đến
ngày rằm, mồng một hàng tháng, dịp lễ tết hoặc các ngày vía Bà trong
năm, chùa mới mở cửa để người dân đến cúng bái, sinh hoạt. Vào dịp này,
đông đảo bà con người Hoa thuộc bang Phước Triều đang sinh sống ở khắp
mọi nơi đến thắp hương cúng Bà và trò chuyện, bàn bạc, trao đổi việc làm
ăn. Họ là những người dân lao động bình thường, giới làm ăn buôn bán
hoặc cũng có thể là công nhân viên chức nhà nước như mọi người Việt
khác. Hiện nay chùa mở cửa hàng ngày để khách thập phương có thể thường
xuyên đến thắp nhang cúng Bà, xin xăm cầu phúc. Như vậy Chùa Bà có vai
trò giống như đình làng của người Việt, vừa là điện thờ Mẫu, vừa là nơi
thờ cúng tổ tiên, vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa, giải trí của cộng
đồng người Hoa ở Nha Trang, Khánh Hòa.
Hơn trăm năm qua, Chùa Bà Thiên Hậu Phước Triều đã trải qua nhiều lần tu
bổ, tôn tạo vào các năm 1963, 1991 nhưng vẫn giữ được một số nét đặc
trưng của kiến trúc tôn giáo Trung Hoa.
Chùa được xây dựng trên một khu đất rộng có diện tích 1176m2 tại Tổ 2,
Khóm Vĩnh Điềm, Phường Ngọc Hiệp, TP. Nha Trang. Cổng chùa quay về hướng
Nam, có mái che lợp ngói đỏ, trên nóc mái đắp hình song phụng triều
nguyên. Hai cánh cổng bằng gỗ sơn đỏ. Mặt trước cổng khắc 4 chữ Hán đại
tự ghi tên chùa: “Thiên Hậu Thánh Miếu”.
Trên trụ cổng khắc 2 câu: “Thiên Ân Phổ Tứ” và “Hậu Đức Đồng Thiêm”, hai bên vẽ hình rồng chầu.
Qua cổng chùa đến một cái sân rộng, hai bên tường được tô điểm bằng
những bức tranh vẽ cảnh sơn thủy bồng lai do khách thập phương hiến
cúng.
Trước sân có bàn thờ Thiên Địa với tấm án phong và bàn thiên. Mặt trước
án phong vẽ hình hổ, mặt sau vẽ hình kỳ lân. Giữa sân có một lư hương
rất to, hai bên đắp nổi hình rồng chầu.
Qua khỏi khoảng sân rộng đến điện thờ Mẫu. Đây là một tòa nhà có chiều
ngang khoảng 8m, chiều sâu khoảng 15m. Trên nóc mái đắp hình lưỡng long
chầu nguyệt, các góc tàu đao trang trí hình chim phụng.
Trước cổng điện có dòng đại tự: “Từ ân phổ tế”. Hai bên trụ cổng khắc hai câu đối:
- “Hậu Đức Phối Thiên Tổ Đậu Thiên Thu Long Tự Điển”
- “Mẫu Nghi Xưng Thánh Từ Hàng Phổ Độ Tế Sinh Dân”
Từ ngoài vào trong, gian bái đường có 8 cột lớn với bộ khung bằng gỗ
chạm trỗ khá tinh xảo, trên các cột và đà mái đều được trang trí bằng
các tấm hoành phi, liễn đối sơn son thếp vàng cổ kính.
Ở hàng cột đầu là 2 bức liễn:
- “Thánh Tích Hiển Mi Châu Phổ Độ Thương Sinh Ly Khổ Hải”
- “Mẫu Ân Phu Việt Quốc Trường Hưu Xích Tử Hộ Từ Hàng”
Trên cao treo 2 tấm hoành:
- “Hữu Cầu Tất Ứng”
- “Ân Quang Phổ Chiếu”
Tiếp theo là hai bức liễn:
- “Chí Thiết An Lang Tồn Thần Xứ Hà Thanh Hải Án”
- “Thân Kỳ Tế Thế Lập Niệm Thời Vật Phụ Dân Phong”
Bên trên là 3 tấm hoành phi:
- “Vạn Thế Vĩnh Lai”
- “Hồng nhơn phổ tế”
- “Hộ Quốc Tý Dân”
Giữa chánh điện treo tấm hoành phi lớn nhất, cao nhất khắc 4 chữ đại tự: “Thiên Hậu Thánh Mẫu”.
Bên cạnh là các bức hoành nhỏ hơn:
- “Trạch Tý Kiều Duệ”
- “Ân Chu Tứ Hải”
- “Ân Mộc Tương Sinh”
Trên hàng cột thứ ba có 2 câu liễn:
- “Hải Bất Dương Ba Ẩn Độ Tiên Sai Viễn Nhĩ”
- “Dân Giai Lạc Nghiệp Thiên Hạ Mẫu Đức Cao Thâm”
Rồi đến các bức hoành:
- “Hải Quốc Trường Xuân”
- “Phước Bị Tương Sinh”
Trong cùng là bàn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Ngự trên ngai thờ là pho
tượng Bà Thiên Hậu với y trang lộng lẫy, tạc bằng gỗ sơn cao khoảng
0,5m, hai bên là hai bức tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ đứng hầu. Đây là bộ
tượng thờ mới do bá tánh hiến cúng gần đây. Bên cạnh bộ tượng này, hiện
nay chùa vẫn còn lưu thờ bộ tượng cũ có kích thước nhỏ hơn.
Hai bên khám thờ đặt các đồ từ khí như chuông, trống. Trên cao treo bức
hoành phi bằng gỗ sơn đỏ khắc 4 chữ “Thiên Hậu Hội Quán”, dưới có dòng
lạc khoản đề mùa xuân năm Ất Hợi niên hiệu Đồng Trị thứ 14 (1875) do
chúng thương nhân kính tặng. Đây là di vật cổ nhất chùa còn lưu giữ đồng
thời là cứ liệu giúp ta xác định được nguồn gốc và niên đại kiến tạo
của ngôi chùa.
Ngoài tấm bảng này, hai bên bàn thờ còn treo hai tấm hoành:
- “Thần Ân Hạo Đãng”
- “Đức Phối Hạo Thiên”
Sau gian chính điện, qua một cái sân nhỏ có chức năng như giếng trời thì
đến nhà linh có tên “Phước Triều Nghĩa Tự”, đây là nơi thờ bài vị những
người quá cố thuộc nhiều thế hệ của bang Phước Triều.
Khu đất bên phải chùa là các công trình phụ mới xây dựng sau này như nhà
khách (để khách viếng chùa nghỉ chân, trò chuyện), nhà ăn, nhà bếp, nhà
vệ sinh… được xây dựng trong một không gian thoáng đãng, mát mẻ, bao
quanh bởi cây cối xanh tươi.
Trước sân nhà ăn là tấm bia lớn khắc tên những người đã đóng góp tài lực cho cuộc trùng tu Chùa Bà vào năm 1991.
Về lịch trình các ngày vía Bà, bang Phước Triều theo lệ mới “Xuân Thu nhị kỳ”, mỗi kỳ kéo dài 3 ngày.
Từ ngày 21 đến 23 tháng 3 âm lịch hàng năm là lễ vía Bửu Đản (ngày sinh Thiên Hậu Thánh Mẫu):
- Ngày 21 tháng 3: Lễ cúng và thay y bào Thánh Mẫu.
- Ngày 22 tháng 3: Ăn chay.
- Ngày 23 tháng 3: Rước Bà.
Từ ngày 21 đến 23 tháng 9 âm lịch hàng năm là lễ vía Thăng Thiên (ngày mất Thiên Hậu Thánh Mẫu):
- Ngày 21 tháng 9: Lễ cúng và thay y bào Thánh Mẫu (7 giờ).
- Ngày 22 tháng 9: Lễ khai kinh (7 giờ); Cúng ngọ (10 giờ); Lễ hoàn kinh và cúng Các Bác (17 giờ).
- Ngày 23 tháng 9: Dâng hương (7 giờ); Đấu thầu lộc Mẫu (10 giờ); Thiết đãi tiệc mặn (11 giờ); Hoàn mãn (13 giờ).
Các ngày lễ vía Bà Thiên Hậu tại chùa Phước Triều vào tháng 3 và tháng 9
âm lịch hàng năm là những ngày lễ hội quan trọng nhất của cộng đồng
người Hoa gốc Phước Kiến, Triều Châu tại Nha Trang - Khánh Hòa. Với
những tác động tích cực về mặt văn hóa-xã hội, có thể nói Chùa Bà không
hẳn là một trung tâm tôn giáo theo đúng ý nghĩa nghiêm ngặt của nó mà là
một tín ngưỡng dân gian mang tính chất “uống nước nhớ nguồn” của người
Hoa, giống như tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Chăm,
người Việt.